Cụ thể, bổ sung quy định trường hợp lao động nữ mang thai hoặc lao động nữ mang thai hộ có đủ điều kiện về thời gian đóng để hưởng chế độ thai sản khi sinh con, nếu trong trường hợp thai từ đủ 22 tuần tuổi trở lên mà bị sảy thai, phá thai, thai chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ, lao động nữ và người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp lao động nữ sinh con.
Đối với lao động nữ mang thai hoặc lao động nữ mang thai hộ mà thai từ đủ 22 tuần tuổi bị chết, sẽ có hai trường hợp xảy ra:
Đối với trường hợp đủ điều kiện thời gian đóng như đối với trường hợp sinh con thì được hưởng chế độ như trường hợp thai sản sinh con. Đối với trường hợp chưa đủ điều kiện về thời gian đóng thì được nghỉ 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.
Đại diện BHXH Việt Nam đánh giá, với quy định trên thì Luật BHXH 2024 đã mở rộng hơn so với Luật BHXH hiện hành.
Thêm vào đó, luật mới cũng bổ sung quy định nới lỏng điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con, mà trước khi sinh con phải nghỉ việc để điều trị vô sinh. Theo đó, lao động nữ chỉ cần đóng BHXH bắt buộc từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng liền kề trước khi sinh con.
Đối với chế độ BHXH tự nguyện, Luật BHXH năm 2024 quy định người lao động tham gia BHXH tự nguyện khi sinh con nếu đáp ứng đủ điều kiện (đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con) thì được hưởng trợ cấp bằng 2 triệu đồng cho mỗi con được sinh ra và mỗi thai từ 22 tuần tuổi trở lên chết trong tử cung, thai chết trong khi chuyển dạ.
Đại diện BHXH Việt Nam cho biết, kinh phí thực hiện trợ cấp chế độ BHXH tự nguyện do ngân sách nhà nước bảo đảm. Chính phủ sẽ quyết định điều chỉnh mức trợ cấp thai sản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
Điểm mới về chế độ ốm đau của Luật BHXH mới
Luật BHXH năm 2024 được Quốc hội thông qua vào cuối tháng 6/2024, có hiệu lực từ 1/7/2025.
Trong lần sửa đổi này, chế độ ốm đau đã có một số thay đổi. Cụ thể, bổ sung quy định chế độ ốm đau không trọn ngày để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người lao động (Khoản 5 Điều 45). Theo đó, mức hưởng trợ cấp ốm đau nửa ngày được tính bằng một nửa mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày.
Khi tính mức hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau không trọn ngày thì trường hợp nghỉ việc dưới nửa ngày được tính là nửa ngày; từ nửa ngày đến dưới một ngày được tính là một ngày.
Luật cũng bổ sung quy định các trường hợp người lao động nghỉ việc được hưởng chế độ ốm đau (Điểm a, c, đ khoản 1 và điểm b, khoản 2 Điều 42), bao gồm: Điều trị khi mắc bệnh mà không phải bệnh nghề nghiệp; Điều trị khi bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở theo tuyến đường và thời gian hợp lý theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật; Trường hợp sử dụng thuốc tiền chất hoặc thuốc dạng phối hợp có chứa tiền chất theo chỉ định của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh thuộc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
Bên cạnh đó, Luật BHXH 2024 đã sửa đổi quy định về chế độ ốm đau dài ngày. Người lao động có thể hưởng chế độ ốm đau trong 1 năm tối đa từ 30-70 ngày tùy theo điều kiện làm việc với mức hưởng bằng 75% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.
Sau đó, khi hưởng hết thời hạn hưởng mà vẫn tiếp tục điều trị thì người lao động nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức hưởng thấp hơn.
Minh Hoa (t/h)
Link nội dung: https://doanhnhanasean.com/quy-dinh-moi-ve-che-do-thai-san-tu-172025-nhieu-nguoi-can-biet-a215806.html