Giá cà phê trong nước tăng nhẹ 100-200 đồng/kg
Giá cà phê trong nước được cập nhật lúc 4h30 phút ngày 17/8/2024 như sau, theo trang www.giacaphe.com, giá cà phê trong nước tăng nhẹ 100 - 200 đồng/kg so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 117.000 - 117.800 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 117.200 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 117.800 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 117.700 đồng, tăng 200 đồng/kg, ở Pleiku và La Grai cùng giá 117.600 đồng/kg; tại tỉnh Kon Tum cà phê được thu mua ở mức giá 117.700 đồng/kg; tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 117.800 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 117.000 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay ngày 17/8 tại tỉnh Đắk Lắk được thu mua ở mức khoảng 117.800 đồng/kg; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 117.700 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 117.700 đồng/kg.
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 17/8/2024 lúc 4h30 tăng lên mức 4.115 - 4.665 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.665 USD/tấn (tăng 94 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.452 USD/tấn, tăng 74 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 4.278 USD/tấn (tăng 74 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 4.115 USD/tấn (tăng 73 USD/tấn).
Giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 17/8/2024 mức tăng từ 239.15 - 245.45 ent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 245.45 cent/lb (tăng 2.31%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 244.10 cent/lb (tăng 2.54 %); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 241.60 cent/lb (tăng 2.50 %) và kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 239.15 cent/lb, tăng 2.44%.
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 17/8/2024 tăng, giảm trái chiều. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 304.00 USD/tấn, tăng 0,20%; kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 297.85 USD/tấn, giảm 0,18%; kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 296.55 USD/tấn, tăng 2,70 % và giao hàng tháng 5/2025 là 292.15 USD/tấn (tăng 2,65%).
Giá hồ tiêu trong nước giảm 1.000 đồng/kg
Giá tiêu hôm nay tại một số vùng trồng trọng điểm trong nước tiếp tục chịu áp lực giảm từ 2.000 - 2.500 đồng/kg. Qua đó, đưa mặt bằng giá tiêu trung bình trên thị trường nội địa dao động quanh ngưỡng 136.000 - 137.000 đồng/kg.
Cụ thể, ở khu vực Tây Nguyên, giá tiêu hôm nay tại Đắk Lắk giảm 2.000 đồng/kg, xuống còn 137.000 đồng/kg.
Giá tiêu hôm nay tại Gia Lai cũng giảm 2.500 đồng/kg, xuống còn 136.500 đồng/kg; tại Đắk Nông giảm 2.500 đồng/kg, xuống còn 136.500 đồng/kg
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai cũng chịu áp lực giảm 2.500 đồng, xuống còn 136.000 đồng/kg. Giá tiêu hôm nay tại Bình Phước cũng giảm 2.500 đồng/kg, xuống còn 136.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới, dựa trên báo giá của các doanh nghiệp xuất khẩu và giá xuất cảng tại các nước, Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) đã cập nhật giá tiêu các loại giao dịch trên thị trường quốc tế trong ngày 16/8 (theo giờ địa phương) như sau:
Giá tiêu đen Lampung của Indonesia giảm nhẹ 0,16%, xuống còn 7.412 USD/tấn; tương tự, giá tiêu trắng Muntok cũng giảm 0,15%, xuống còn 8.728 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA 570 của Brazil giữ ổn định, đạt 6.175 USD/tấn.
Giá tiêu đen ASTA của Malaysia đi ngang, đạt 8.500 USD/tấn; giá tiêu trắng ASTA của nước này cũng đi ngang, đạt 10.400 USD/tấn.
Giá tiêu các loại của Việt Nam được giữ ổn định. Trong đó, giá tiêu đen của Việt Nam loại 500 gr/l giữ ở mức 5.800 USD/tấn; loại 550 gr/l giữ ở mức 6.200 USD/tấn.
Tương tự, giá tiêu trắng của Việt Nam giữ ổn định ở mức 8.500 USD/tấn.
Giá cao su trong nước đi ngang
Từ đầu tháng 8, giá mủ cao su nguyên liệu được Công ty cao su Phú Riềng (Bình Phước) thu mua ở mức 290 - 302 đồng/độ TSC, giảm nhẹ 5 đồng/độ TSC so với cuối tháng 7.
Tại Bình Dương, giá mủ cao su nguyên liệu của Công ty cao su Phước Hòa ở mức 306 - 308 đồng/độ TSC, giảm 5 đồng/độ TSC so với cuối tháng 7.
Giá mủ cao su tại Gia Lai được Công ty cao su Mang Yang thu mua ở mức 285 - 295 đồng/độ TSC, ổn định so với cuối tháng 7.
Trong tháng 7, Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ cao su nhiều nhất của Việt Nam, chiếm 71% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước với 140 nghìn tấn, tương đương 220 triệu USD, tăng 5% về lượng và tăng 4% về trị giá so với tháng 6.
Lũy kế 7 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu cao su sang Trung Quốc đạt 676 nghìn tấn; trị giá đạt 1,1 tỷ USD, tăng 5% về lượng và tăng 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Cục Xuất nhập khẩu đánh giá, trong những tháng gần đây, nhu cầu nhập khẩu cao su của Trung Quốc có xu hướng tăng trở lại, phục vụ cho sản xuất.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn đang thực hiện chính sách "Zero COVID" nên xuất khẩu cao su sang nước này chưa thể có bước nhảy vọt.
Giá cao su hôm nay 17/8 tại thị trường thế giới tiếp tục giảm mạnh so với hôm qua.
Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) giao tháng 8/2022 xuống mức 220 yen/kg, giảm 0,27% (tương đương 0,6 yen/kg).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2022 giảm xuống mức 11.980 nhân dân tệ/tấn, giảm thêm 10,04% (tương đương 5 nhân dân tệ).
Từ đầu tháng 8/2022 đến nay, giá cao su tại các sàn giao dịch châu Á giảm do lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu khiến nhu cầu tiêu thụ giảm.
Bên cạnh đó, sản lượng cao su toàn cầu tăng cùng với giá dầu thô suy yếu càng làm ảnh hưởng đến thị trường này.
Nhập khẩu cao su của Trung Quốc tiếp tục tăng. Trong tháng 7, Trung Quốc nhập khẩu 579,7 nghìn tấn cao su tự nhiên và tổng hợp (kể cả mủ cao su), với trị giá 1,06 tỷ USD. So với tháng 6/2022 tăng thêm 8,3% về lượng và tăng 4,5% về trị giá.
Lũy kế 7 tháng đầu năm 2022, Trung Quốc nhập khẩu 3,97 triệu tấn cao su tự nhiên và tổng hợp, trị giá 7,48 tỷ USD, tăng 4,1% về lượng và tăng 10,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Giá lúa gạo điều chỉnh tăng nhẹ
Tại thị trường trong nước đều tăng 50 - 100 đồng/kg với một số loại gạo. Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương, giá neo cao, nhiều thương lái đã ra hàng, lượng còn lại ít, khan hàng…
Cụ thể, tại Sóc Trăng, lượng về ít, giao dịch ổn định, kho mua chậm, giá chững. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), kho mua khá, giá chững lại và neo cao. Tại Sa Đéc (Đồng Tháp), vắng gạo, kho mở mua đều, giá chợ mua chậm lại. Tại Kiên Giang, neo ở mức cao, chủ yếu mua lúa gần ngày cắt.
Với mặt hàng gạo, giá gạo ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu lên mức 11.750 - 11.900 đồng/kg, tăng 50 -100 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 giữ ở mức 13.850 - 13.900 đồng/kg, tăng 50 -100 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm Thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan (Trung Quốc) 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương, lúa khô Đài Thơm 8 Đông Xuân, giá neo cao, nhiều thương lái đã ra hàng, lượng còn lại ít, khan hàng… Tại Đồng Tháp, nhu cầu mua khá, giá lúa có xu hướng tăng nhẹ, thương lái trả thấp không bán. Tại Cần Thơ, nhu cầu hỏi mua lúa Thu Đông ổn định, giao dịch chậm.
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua, giá lúa IR 50404 dao động quanh mốc 7.500 - 8.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 8.300 - 8.400 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 8.000 - 8.200 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 8.300- 8.400 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 8.000 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Cũng theo đó, thị trường nếp ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Nếp IR 4625 (tươi) có giá 7.800 - 7.900 đồng/kg, ổn định so với ngày hôm qua. Nếp An Giang (tươi) có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg, đi ngang so với ngày hôm qua.
Mặt hàng phụ phẩm hôm nay ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện giá tấm OM 5451 giữ ở mức 9.500 - 9.600 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; giá cám khô duy trì giảm xuống mức 7.200 - 7.300 đồng/kg, giảm 50 - 100 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 440 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm lên mức 575 USD/tấn, tăng 5 USD; gạo 25% tấm lên mức 539 USD/tấn, tăng 3 USD.
Giá na Thái bán tại vườn từ 35.000 đến 40.000 đồng/kg
Là người có kinh nghiệm nhiều năm trồng cây ăn quả các loại, một nông dân ở thôn 11, xã Hòa Phú, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk trồng thành công giống na Thái trái to bự. Vườn na Thái của họ có 200 na Thái thay cho vườn xoài già cỗi, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Giống na Thái chịu được hạn nhưng không chịu úng, kháng sâu bệnh tốt hơn các giống na địa phương.
Quả na Thái ít hạt, vỏ mỏng, hương vị thơm ngọt đậm và mẫu mã đẹp nên được thị trường rất ưa chuộng. Với điều kiện thời tiết Buôn Ma Thuột, của tỉnh Đắk Lắk, cây na Thái cho thu hoạch từ tháng 6 đến Tết Nguyên đán, nhưng thu hoạch tập trung từ tháng 8 đến tháng 9.
Ngày tết giá na Thái bán lên đến 80.000 đến 100.000/kg, ngày thường giá na Thái bán sỉ từ 35.000 đến 40.000 đồng/kg, hiện tại sản lượng chưa nhiều nên cung vẫn không đủ cầu.
Mỗi cây na Thái 5 năm tuổi đã cho thu hoạch từ 35 đến 40 kg/vụ. Nếu vào thời kỳ kinh doanh ổn định, chăm sóc tốt, cây Na Thái có thể cho thu hoạch từ 50 đến 70 kg/cây.
Nếu trồng với mật độ 625 cây/ha (4m x 4m), cùng giá bán na Thái của thị trường hiện nay, mỗi năm sẽ cho thu hoạch từ 700 triệu đến 900 triệu/ha.
KHÁNH LINH (t/h)
Hoặc