CPI tháng 10 tăng 0,2%: 10 nhóm hàng hóa dịch vụ tăng giá, riêng 1 nhóm giảm mạnh

Admin

06/11/2025 12:30

Giá thực phẩm tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mưa lũ sau bão; ăn uống ngoài gia đình tăng theo chi phí nguyên liệu đầu vào và dịch vụ giáo dục các trường ngoài công lập tiếp tục tăng.

CPI tháng 10 tăng 0,2%: 10 nhóm hàng hóa dịch vụ tăng giá, riêng 1 nhóm giảm mạnh- Ảnh 1.

Cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 10 và 10 tháng năm 2025.

Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Mười tăng 0,20% so với tháng trước chủ yếu do giá thực phẩm tăng cao tại các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mưa lũ sau bão; ăn uống ngoài gia đình tăng theo chi phí nguyên liệu đầu vào và dịch vụ giáo dục các trường ngoài công lập tiếp tục tăng. CPI tháng Mười tăng 2,82% so với tháng 12/2024; tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước.

Bình quân mười tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,20%.

Trong mức tăng 0,20% của CPI tháng Mười so với tháng trước, có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; riêng chỉ số giá nhóm giao thông giảm.

Mười nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:

– Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59% (tác động làm CPI chung tăng 0,20 điểm phần trăm), trong đó: Thực phẩm tăng 0,69% (tác động làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,57%; lương thực tăng nhẹ 0,02%.

– Nhóm giáo dục tăng 0,51%, trong đó, giá dịch vụ giáo dục tăng 0,56% do một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp, nghề nghiệp, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương điều chỉnh tăng học phí năm học 2025-2026 mặc dù các trường công lập được miễn, giảm và hỗ trợ học phí theo Nghị định số 238/2025/NĐ-CP ban hành ngày 03/9/2025 của Chính phủ. Bên cạnh đó, giá sản phẩm từ giấy tăng 0,29%; bút viết các loại tăng 0,24%; văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,10%.

– Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,43%, chủ yếu do giá một số mặt hàng tăng như: Giá đồ trang sức tăng 9,82% theo giá vàng thế giới; dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 0,69%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,40%; sửa chữa đồng hồ đeo tay, sửa chữa đồ trang sức tăng 0,37%; dịch vụ về hiếu, hỷ tăng 0,22%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 0,36%; dịch vụ cắt tóc, gội đầu tăng 0,28%; dịch vụ vệ sinh môi trường tăng 0,09%.

– Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,20% do chi phí sản xuất và nhân công tăng. Trong đó, giá trang thiết bị nhà bếp tăng 0,7%; ấm, phích nước điện tăng 0,59%; máy giặt tăng 0,54%; dịch vụ trong gia đình tăng 0,43%; máy in, máy chiếu tăng 0,42%; máy đánh trứng tăng 0,38%; bàn là điện tăng 0,27%; máy hút bụi tăng 0,29%; bếp ga tăng 0,25%; đèn điện thắp sáng tăng 0,24%; xà phòng, chất tẩy rửa và dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình cùng tăng 0,21%.

– Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,18% do nhu cầu mua sắm tăng khi thời tiết chuyển lạnh. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,35%; quần áo may sẵn tăng 0,26%; may mặc khác và dịch vụ may mặc cùng tăng 0,25%; mũ nón tăng 0,19%; dịch vụ giày, dép tăng 0,15%.

– Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,12% do nhu cầu tiêu dùng và chi phí sản xuất tăng, trong đó giá nước uống tăng lực đóng chai, lon, hộp tăng 0,42%; nước giải khát có ga tăng 0,38%; nước quả ép tăng 0,24%; rượu các loại tăng 0,21%; thuốc hút tăng 0,15%.

– Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,06%, tập trung chủ yếu ở các nhóm: Giá khách sạn, nhà khách tăng 0,46%; vé thuê chỗ chơi thể thao tăng 0,08%; xem phim, ca nhạc tăng 0,69%. Ở chiều ngược lại, du lịch trọn gói giảm 0,15% do các công ty du lịch triển khai chương trình khuyến mại giảm giá để kích cầu tiêu dùng.

– Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,04% do nhóm thuốc hoóc – môn và thuốc hô hấp tăng 0,21%; thuốc giảm đau, hạ sốt chống viêm không steroid tăng 0,19%; nhóm vitamin và khoáng chất và thuốc chống dị ứng và các trường hợp quá mẫn cùng tăng 0,11%; thuốc đường tiêu hóa tăng 0,10%; thuốc chống nhiễm, điều trị ký sinh trùng tăng 0,08%.

– Nhóm bưu chính, viễn thông tăng 0,03%, trong đó, máy điện thoại di động thông minh tăng 1,28%; giá sửa chữa điện thoại tăng 0,15%.

– Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,01% chủ yếu do các nguyên nhân sau: Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,99% do giá gạch, cát, đá tăng khi nhu cầu sửa chữa, xây dựng tăng vào cuối năm; giá thuê nhà tăng 0,34% do nhu cầu thuê nhà tăng tại một số địa phương khi sinh viên và học sinh quay trở lại các thành phố lớn để học tập; giá dầu hỏa tăng 0,56% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng; giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,26% do tiền công thợ sơn tường, thợ lát nền, xây tường và lao động phổ thông tăng. Ở chiều ngược lại, giá một số mặt hàng giảm, gồm: Giá điện sinh hoạt giảm 1,74%; giá nước sinh hoạt giảm 0,17% do thời tiết mát mẻ, nhu cầu sử dụng giảm; giá gas giảm 1,62%, nguyên nhân là từ ngày 01/10/2025, giá gas trong nước điều chỉnh giảm theo giá gas thế giới.

Riêng chỉ số giá nhóm giao thông giảm 0,81% (tác động làm giảm CPI chung 0,08 điểm phần trăm). Trong đó, chỉ số giá dầu diesel giảm 0,35%; chỉ số giá xăng giảm 2,48% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước. Thêm vào đó, giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,62%; vận tải hành khách bằng đường hàng không giảm 5,46%. Ở chiều ngược lại, một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng: Giá vận tải hành khách bằng xe buýt tăng 0,06%; vận tải hành khách bằng taxi tăng 0,05%; vận tải hành khách kết hợp tăng 0,04% do nhu cầu đi lại tăng; giá nhóm phụ tùng tăng 0,20% do chi phí nhập khẩu linh kiện tăng; giá bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,14%.

Lạm phát cơ bản tháng Mười tăng 0,35% so với tháng trước và tăng 3,30% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân mười tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,20% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,27% của CPI bình quân chung, nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 31/10/2025, giá vàng thế giới bình quân ở mức 4.030,66 USD/ounce, tăng 9,28% so với tháng trước, mức tăng mạnh nhất trong nhiều năm gần đây. Nguyên nhân chính là do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất điều hành khiến đồng USD suy yếu, lợi suất trái phiếu giảm sâu và vàng trở nên hấp dẫn với nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, rủi ro địa chính trị, bất ổn kinh tế toàn cầu, các ngân hàng trung ương tiếp tục mua ròng vàng để đa dạng hóa dự trữ và hoạt động đầu cơ tăng mạnh đã thúc đẩy tăng giá. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng Mười tăng 12,53% so với tháng trước; tăng 63,64% so với tháng 12/2024; tăng 65,03% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười tháng năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 44,02% so với cùng kỳ năm trước.

Giá đô la Mỹ trong nước biến động ngược chiều với giá thế giới. Tính đến ngày 31/10/2025, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 98,46 điểm, tăng 1,02% so với tháng trước do thị trường kỳ vọng FED sẽ duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng và nhu cầu nắm giữ USD tăng trong bối cảnh bất ổn địa chính trị và triển vọng kinh tế toàn cầu suy yếu.

Trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười giảm 0,34% so với tháng trước; tăng 5,54% so với cùng kỳ năm trước; tăng 3,62% so với tháng 12/2024; bình quân mười tháng năm 2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,98% so với cùng kỳ năm trước.