LỜI TOÀ SOẠN: Trong thời đại số, mọi lĩnh vực trong xã hội đều bị tác động và thay đổi nhanh, các làng nghề thủ công hàng trăm tuổi đứng trước nguy cơ xoá sổ khi các nghệ nhân dần mất đi. Tuy vậy, vẫn có những người kiên trì bám trụ để giữ di sản làng nghề của cha ông. VietNamNet triển khai loạt bài về những người giữ hồn di sản tại làng nghề mộc bản Thanh Liễu 500 tuổi, làng dệt đũi Nam Cao 400 tuổi và phường rối nước Nguyên Xá - nơi có chú Tễu lớn nhất Việt Nam.
Nằm bên dòng sông chảy qua xã Nam Cao (huyện Kiến Xương, Thái Bình cũ, nay là xã Lê Lợi, tỉnh Hưng Yên), làng dệt đũi Nam Cao từ lâu được biết đến là cái nôi của nghề dệt tơ tằm thủ công. Hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển, nghề dệt đũi nơi đây đã trở thành một phần tài sản văn hóa quan trọng của cộng đồng, lưu giữ những giá trị truyền thống đặc sắc bền bỉ cùng thời gian.
Tháng 11/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh nghề dệt đũi Nam Cao là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, mở ra cơ hội hồi sinh mạnh mẽ cho một làng nghề từng có thời gian bị mai một.
Hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển, nghề dệt đũi nơi đây đã trở thành một phần tài sản văn hóa quan trọng của cộng đồng.
Di sản hơn 400 năm từ đôi tay của người thợ làng
Đũi Nam Cao được dệt từ phần tơ rút lõi của kén tằm - loại sợi có cấu tạo protein tự nhiên, mềm, mát, thấm hút tốt, thân thiện với da và môi trường. Nhờ kỹ thuật dệt thủ công tinh xảo, lớp sợi đũi tạo nên mặt vải sần nhẹ, mộc mạc nhưng lại mềm mại, thoáng mát, giữ ấm vào mùa đông và thoáng mát vào mùa hè. Vẻ đẹp giản dị nhưng tinh tế ấy đã đưa sản phẩm Nam Cao ngày nay đến với thị trường thời trang cao cấp và nhiều quốc gia trên thế giới.
Dẫu vậy, hành trình của làng nghề không phải lúc nào cũng thuận lợi. Sau thời hoàng kim giai đoạn đầu thế kỷ XX, khi được công nhận là làng nghề truyền thống (2003, 2009, 2011), việc xuất khẩu không chính ngạch và sự cạnh tranh của hàng công nghiệp khiến nghề dệt rơi vào suy giảm. Đến năm 2019, làng nghề thậm chí bị thu hồi bằng công nhận do sản xuất cầm chừng.
Nhưng những giá trị văn hóa - kỹ thuật của nghề chưa bao giờ mất đi. Nhờ sự kiên trì của một số nghệ nhân và cơ sở sản xuất, đến nay Nam Cao vẫn duy trì 2 doanh nghiệp, 1 hợp tác xã và 3 hộ gia đình làm nghề với khoảng 195 lao động, thu nhập ổn định từ 5-8 triệu đồng/tháng.
Người giữ lửa
Nhắc đến đũi Nam Cao, người dân địa phương thường nhắc ngay đến nghệ nhân Nguyễn Đình Đại - người được xem như "linh hồn" của nghề dệt nơi đây. Gắn bó với tiếng khung cửi từ thuở nhỏ, ông Đại kế thừa nghề từ cha là nghệ nhân Nguyễn Đình Bân - người cải tiến từ khung cửi thủ công sang máy bán cơ khí, tạo bước chuyển quan trọng giúp năng suất tăng cao và đưa làng nghề bước vào thời kỳ phát triển mạnh.
Suốt nhiều thập kỷ, ông Đại kiên trì giữ lại từng công đoạn thủ công của nghề - từ kéo kén, phơi kén, chuỗi đũi đến dệt vải và nhuộm thủ công. Mỗi hộ gia đình nhận một công đoạn, tạo nên tính liên kết và bản sắc riêng của làng nghề. Nhờ đó, vải đũi Nam Cao vẫn giữ được độ trơn, ánh tự nhiên và sự mộc mạc mà công nghệ công nghiệp khó có thể thay thế.
Những sợi đũi được giặt, phơi trong sân nhà ông Đại.
"Đũi Nam Cao mềm mịn, sờ mát tay, an toàn cho da lại có độ thấm hút tự nhiên của sợi tơ tằm. Vải dùng mùa đông thì ấm, mùa hè thì thoáng. Đó là nét độc đáo không nơi nào có được", ông Đại chia sẻ.
Với niềm đam mê đặc biệt dành cho chất liệu truyền thống, ông Đại hiện là người sở hữu nhiều mẫu vải đũi nhất Việt Nam. Nhiều thợ dệt chỉ cần nhìn họa tiết, cấu trúc là nhận ra mẫu vải do chính tay ông thực hiện. Các sản phẩm của ông được xuất khẩu sang Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào… trong đó Thái Lan đã trở thành thị trường ổn định hơn 20 năm.
Dù thành công, người nghệ nhân tròn 70 tuổi này vẫn canh cánh nỗi lo về tương lai của nghề. Ông kể: "Có những năm, cả xã không còn nghe tiếng kéo sợi hay tiếng khung cửi. Hàng làm ra không bán được, người trẻ đi làm xa, làng nghề đứng trước nguy cơ mất hẳn". Covid-19 như cú đòn mạnh giáng xuống, khiến nhiều hộ phải bỏ nghề.
Nhưng ông Đại không cho phép mình dừng lại. Ông miệt mài cải tiến mẫu mã, nghiên cứu kỹ thuật nhuộm mới, tìm kiếm đầu ra cho bà con, đồng thời trực tiếp sang các nước trong khu vực học hỏi kinh nghiệm để nâng chất lượng vải đũi địa phương.
"Chỉ khi người dân sống được bằng nghề, làng nghề mới có thể tồn tại", ông nói.
Niềm vui lớn nhất của nghệ nhân Nguyễn Đình Đại là nghề không chỉ được giữ lại mà còn có những người trẻ tiếp tục nối nghề. Chị Đỗ Thị Tâm - con dâu ông, là một trong những người trẻ dành trọn tâm huyết với đũi Nam Cao.
Ban đầu, chị Tâm không có ý định theo nghề. Nhưng khi khoác chiếc áo đũi đầu tiên, chị phải lòng chất liệu mộc mạc, thanh lịch của quê chồng. "Vải đũi khiến mình cảm thấy tự tin và khác biệt. Càng tìm hiểu càng thấy nghề quá quý, nếu mất đi thì tiếc vô cùng", chị chia sẻ.
Ngày nay, chị Tâm đóng vai trò quan trọng trong việc đưa vải đũi ra thị trường, giới thiệu các dòng vải đặc biệt chỉ có tại xưởng gia đình - những loại vải phải trải qua tới 16 công đoạn thủ công, dùng để may áo dài, lễ phục hoặc tặng cho các chính khách.
Chị còn ấp ủ kế hoạch phát triển dòng thời trang thiết kế từ vải đũi tự nhiên, mang thương hiệu riêng vừa hiện đại vừa đậm nét văn hóa Việt Nam. Đây được xem là hướng đi tiềm năng để đưa vải đũi Nam Cao đến gần hơn với giới trẻ và khách quốc tế.
Ông Hà Thế Công, Trưởng phòng Văn hóa-Xã hội xã Lê Lợi cho biết, thời gian tới sẽ di chuyển các hợp tác xã về đây nhằm tạo không gian bảo tồn làng nghề gắn với phát triển du lịch văn hóa sinh thái, mở ra hướng đi bền vững hơn cho nghề truyền thống.
Để giữ nghề, địa phương đang tập trung vào 3 hướng chính:
Xây dựng thương hiệu "đũi Nam Cao" - chuẩn hóa quy trình, thiết kế nhận diện, quảng bá sản phẩm.
Kết hợp làng nghề với du lịch sinh thái và trải nghiệm văn hóa - đón du khách trải nghiệm kéo kén, dệt vải, nhuộm thảo mộc.
Hỗ trợ kỹ thuật, máy móc nhưng không phá vỡ bản sắc thủ công, đồng thời đào tạo lớp trẻ tham gia các công đoạn mới.
Những định hướng này góp phần tạo nền tảng bền vững cho sự phục hồi của làng nghề, mở ra cơ hội để đũi Nam Cao tiếp tục vươn xa.
Trong ánh mắt của những nghệ nhân như ông Đại, đũi Nam Cao không chỉ là sản phẩm kinh tế mà còn là hồn quê - là kỷ niệm của một vùng đất gắn với tiếng khung cửi và mùi tơ tằm chín vàng. Giữ nghề không chỉ là giữ kế sinh nhai mà còn giữ lại bản sắc văn hóa Việt.
"Chắc khi ngừng thở tôi mới hết bận tâm về nghề", ông Đại cười chia sẻ.
Đũi Nam Cao hôm nay đang hồi sinh, từng tấm vải tiếp tục được dệt nên, đem theo những câu chuyện về văn hóa, về con người và về sức sống bền bỉ của làng nghề Việt Nam.
Triển lãm 'Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội' với hơn 130 tài liệu được trưng bày giới thiệu về các làng nghề, phố nghề giai đoạn thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.





Hoặc