3 điểm cốt lõi của Nghị quyết 68
Theo ông Michael Kokalari, với Nghị quyết 68 , khu vực kinh tế tư nhân không chỉ giữ vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế mà còn là lực lượng tiên phong trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
“Một điểm đáng chú ý trong nghị quyết là mục tiêu phát triển 20 doanh nghiệp lớn vào năm 2030, có khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu và dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn hoạt động hiệu quả sẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra việc làm chất lượng cao”, ông Michael Kokalari nói.

Tầm nhìn cốt lõi của Nghị quyết 68 là xây dựng một khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, chất lượng cao.
Vị chuyên gia đến từ VinaCapital nhấn mạnh có 3 điểm cốt lõi của Nghị quyết 68, gồm: Các cơ chế ưu đãi cho khu vực tư nhân, đặc biệt là chiến lược phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân quy mô lớn. Bảo đảm đối xử công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, thiết lập một sân chơi bình đẳng thực sự. Lộ trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng của khu vực kinh tế tư nhân.
Theo VinaCapital, khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt với nhiều thách thức như khó tiếp cận vốn, thủ tục hành chính rườm rà và mức độ ứng dụng công nghệ còn hạn chế - những yếu tố đang kìm hãm tiềm năng phát triển toàn diện của khu vực này. Nghị quyết 68 ra đời nhằm tháo gỡ các nút thắt đó, với mục tiêu cắt giảm ít nhất 30% thời gian, chi phí và thủ tục liên quan đến hoạt động kinh doanh thông qua việc đơn giản hóa cấp phép, giảm gánh nặng tuân thủ và chuyển từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm đối với nhiều loại hình kinh doanh.
Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh
Báo cáo cập nhật của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam chỉ ra, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực của Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng 6,8% vào năm 2025 và 6,5% vào năm 2026.
Bà Mariam J. Sherman - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Campuchia và Lào - cho biết, trong 2 năm tới kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, Việt Nam có thể sử dụng dư địa tài khóa của mình để chuẩn bị tốt hơn cho những bất ổn gia tăng.
“Đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là trong lĩnh vực hạ tầng đô thị, giao thông và năng lượng sẽ rất quan trọng, với điều kiện chính quyền có thể tăng quy mô đầu tư công và đảm bảo chi tiêu hiệu quả”, bà Mariam J. Sherman nói.
Tương tự, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2025 ước đạt 491 tỷ USD, xếp thứ 34 trên thế giới và xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia (1.300 tỷ USD), Singapore (564,7 triệu USD), Thái Lan (546,2 triệu USD) và Philippines (497,5 triệu USD).

Đến năm 2039, CEBR ước tính, quy mô kinh tế của Việt Nam có thể đạt 1.410 tỷ USD.
Đáng chú ý, IMF ước tính đến năm 2029 quy mô kinh tế của Việt Nam sẽ đạt 627 tỷ USD, vượt qua Thái Lan (616 tỷ USD) để trở thành nền kinh tế lớn thứ 32 trên thế giới và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Thứ hạng của Việt Nam tiếp tục được giữ vững trong năm 2030, khi quy mô kinh tế được dự báo sẽ đạt 666,5 tỷ USD.
Báo cáo “World Economic League Table 2025” của Trung tâm dự báo phân tích kinh tế độc lập của Anh (CEBR) đánh giá, thứ hạng quy mô kinh tế của Việt Nam có thể tăng nhanh trong tương lai.
Theo đó, CEBR dự báo, đến năm 2029, với quy mô GDP dự kiến đạt 676 tỷ USD, Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 33, đuổi kịp Thái Lan (676 tỷ USD) và vượt qua các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như Singapore (656 tỷ USD), Malaysia (594 tỷ USD).
Đến năm 2039, CEBR ước tính, quy mô kinh tế của Việt Nam có thể đạt 1.410 tỷ USD. Với kết quả này, quy mô kinh tế Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 25, vượt qua các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như Thái Lan (1.059 tỷ USD), Singapore (982 tỷ USD), Malaysia (1.055 tỷ USD) để lọt nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Để đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam phải tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm khoảng 5% bình quân đầu người. Với việc thương mại toàn cầu suy giảm và dân số già đi, CEBR khuyến nghị Việt Nam cần cải thiện đáng kể hiệu quả thực hiện chính sách, đặc biệt là trong các lĩnh vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tự động hóa và biến đổi khí hậu.
Đột phá về tín dụng cho kinh tế tư nhânTheo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khu vực 2, tính đến cuối tháng 4, dư nợ của các công ty cho thuê tài chính ở TPHCM đã đạt 30.853 tỷ đồng, đang mở ra đòn bẩy vốn mới phát triển kinh tế tư nhân. Đáng chú ý, trên 95% trong số này là dư nợ cho thuê tài chính, chủ yếu phục vụ nhu cầu mua sắm, đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.Ông Nguyễn Đức Lệnh - Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh Khu vực 2 - đánh giá, con số trên cho thấy vai trò ngày càng rõ nét của hoạt động cho thuê tài chính trong việc tiếp vốn cho khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, đang trong quá trình tái cấu trúc sản xuất và hiện đại hóa công nghệ

Nghị quyết 68 ra đời nhằm tháo gỡ các nút thắt đó, với mục tiêu cắt giảm ít nhất 30% thời gian, chi phí và thủ tục liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Ông Lệnh cho biết thêm, Nghị quyết 68 là một chủ trương lớn mang tính chiến lược, toàn diện và phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời đại số. Trong đó, riêng với lĩnh vực ngân hàng, Nghị quyết 68 đang mở ra 3 hướng đột phá cho tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân. Đó là đổi mới phương thức cho vay, chuẩn hóa thông tin tài chính, phát triển các kênh cung ứng vốn phi truyền thống. “Trong bối cảnh Nghị quyết 68 đi vào thực tiễn, yêu cầu đặt ra là phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị và minh bạch tài chính, trong khi các tổ chức tín dụng cần đa dạng hóa phương thức cho vay, đặc biệt là dựa trên dữ liệu và tín chấp. Những thông tin minh bạch, liên thông giữa các cơ quan sẽ trở thành nguồn lực giá trị để tổ chức tín dụng thẩm định, xét duyệt cho vay hiệu quả hơn, từ đó đảm bảo yêu cầu “chọn mặt gửi vàng” trong hoạt động tín dụng, vừa kiểm soát rủi ro, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tư nhân”, ông Lệnh nói.
Hoặc