Rơm rạ là tài nguyên sinh khối nếu xử lý đúng cách
Hội thảo được xây dựng trên nền tảng khoa học của Dự án RiceEco, do Quỹ Hợp tác Mekong – Hàn Quốc tài trợ giai đoạn 2023-2025, tập trung phát triển và nhân rộng các giải pháp quản lý rơm rạ bền vững cho vùng ĐBSCL và các nước láng giềng trong Tiểu vùng sông Mekong.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Nguyễn Văn Hùng, chuyên gia nông nghiệp cao cấp của IRRI, Trưởng nhóm dự án RiceEco cho biết, giải pháp công nghệ quản lý rơm rạ đã được phát triển và áp dụng ở ĐBSCL, sau đó nhân rộng sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Lào… với điều chỉnh phù hợp điều kiện địa phương.
Trong đó, “Giải pháp cơ giới hóa quản lý rơm theo hướng giảm phát thải và nông nghiệp tuần hoàn" đã được công nhận là "Tiến bộ kỹ thuật" của Việt Nam , được Bộ Nông nghiệp và Môi Trường khuyến khích ưu tiên áp dụng.
Giải pháp này đã trở thành hợp phần chính của Quy trình sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL, cơ sở cho Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL.
Các mô hình thí điểm canh tác lúa áp dụng quản lý rơm rạ theo nguyên lý nông nghiệp tuần hoàn cho thấy, rơm rạ thực sự là tài nguyên sinh khối nếu được xử lý đúng cách. Kết quả ghi nhận giúp giảm đến 3 tấn CO₂ tương đương/ha so với biện pháp vùi rơm rạ hoàn toàn vào ruộng ngập nước, đồng thời năng suất lúa tăng 10-15% khi sử dụng phân hữu cơ sản xuất từ rơm.
Cùng với đó, ứng dụng EasyFarm - một trong những sản phẩm được tài trợ một phần bởi dự án RiceEco đã được thử nghiệm với hơn 2.000 nông dân. Ứng dụng này kết nối nông dân với dịch vụ cơ giới hoá cuốn rơm và thị trường thu mua rơm, tạo nền tảng số để nông dân giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp, tăng thu nhập và dần thay đổi thói quen xử lý rơm rạ theo hướng thân thiện môi trường.
TS. Robert Caudwell, Trưởng Đại diện IRRI tại Việt Nam nhấn mạnh tầm nhìn mới về rơm rạ: "Rơm rạ không phải là vấn đề cần quản lý, mà là giải pháp cần khai thác" và cho biết IRRI đã chứng kiến rơm rạ được chuyển hóa thành phân compost, thức ăn gia súc, nấm rơm… vừa giảm phát thải và ô nhiễm không khí, vừa tạo nguồn thu mới cho nông dân.
Từ góc độ cơ quan quản lý, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, quản lý rơm rạ đang bước vào giai đoạn mới, gắn trực tiếp với các cam kết lớn của Việt Nam về tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng “0”.
Ông nhấn mạnh, trong bối cảnh Chính phủ đã phê duyệt Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh và cam kết Net Zero đến năm 2050, quản lý rơm rạ không chỉ là câu chuyện kỹ thuật thuần túy, mà đã trở thành một trụ cột chiến lược của chuyển đổi xanh trong ngành lúa gạo. Nếu bài toán rơm rạ không được giải quyết thấu đáo, mục tiêu giảm phát thải và nâng cấp chuỗi giá trị lúa gạo sẽ rất khó đạt được.
3 nhóm nhiệm vụ trọng tâm
Từ thực tiễn đó, Cục trưởng Lê Đức Thịnh nêu 3 nhóm nhiệm vụ trọng tâm. Một là hoàn thiện thể chế và khung pháp lý để công nhận rơm rạ là tài nguyên sinh khối, không phải phế phụ phẩm , đồng thời ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thu gom, bảo quản, vận chuyển, tái sử dụng…, tạo nền tảng pháp lý cho thị trường rơm rạ phát triển bền vững.
Hai là tổ chức lại chuỗi giá trị với vai trò trung tâm của HTX . HTX không chỉ cung cấp dịch vụ cơ giới hóa thu gom rơm rạ, tổ chức điểm tập kết mà còn là “cầu nối” liên kết với doanh nghiệp chế biến phân hữu cơ, biochar, viên nén sinh khối và các sản phẩm giá trị gia tăng khác, giúp hình thành nguồn cung ổn định và chia sẻ giá trị công bằng hơn với nông dân.
Ba là huy động mạnh mẽ các nguồn lực tài chính và tích hợp cơ chế carbon. “Phải huy động nguồn lực tài chính và tích hợp cơ chế carbon, tận dụng gói tín dụng chuỗi, cơ chế hỗ trợ liên kết theo Nghị định 98/NĐ-CP, các quỹ tín dụng và ODA, sớm xây dựng hệ thống đo đạc – báo cáo – thẩm định (MRV) cho rơm rạ, tích hợp vào cơ chế tín chỉ carbon, từ đó tạo động lực kinh tế rõ rệt cho người dân và doanh nghiệp tham gia mô hình bền vững”, ông Lê Đức Thịnh kiến nghị.
Từ góc nhìn ngành hàng, ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VIETRISA, khẳng định: "Quản lý rơm rạ bền vững là trụ cột quan trọng để Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL đạt mục tiêu giảm phát thải. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là cơ hội kinh tế lớn cho nông dân và doanh nghiệp".
Từ góc độ nghiên cứu, TS. Nguyễn Hồng Tín (Đại học Cần Thơ), đại diện nhóm nghiên cứu hợp tác giữa Đại học Cần Thơ và IRRI, công bố kết quả nghiên cứu toàn diện từ dự án RiceEco 2025 sau khảo sát 385 đối tượng tại 3 tỉnh, hé lộ bức tranh thực tế về dòng chảy rơm rạ từ đồng ruộng đến người tiêu dùng cuối.
Nghiên cứu cho thấy, thương lái đang “dẫn dắt” chuỗi với 32,4% lượng rơm. Rơm chủ yếu được dùng cho trồng nấm (17,9%), chăn nuôi (5,9%) và trồng màu (2,7%). Trong đó, trồng nấm mang lại lợi nhuận cao nhất (77,9%), với tổng giá trị kinh tế đạt 6.671 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, chuỗi giá trị rơm rạ vẫn bộc lộ nhiều hạn chế: Thiếu tiêu chuẩn chất lượng, chưa có sàn giao dịch chính thống, logistics yếu và thiếu tín dụng ưu đãi. TS. Nguyễn Hồng Tín đề xuất: Cần xác lập địa vị pháp lý “rơm là tài nguyên sinh khối”, ban hành tiêu chuẩn, hỗ trợ tín dụng và tích hợp rơm rạ vào cơ chế carbon để hình thành một thị trường minh bạch, bền vững hơn.
Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Tập đoàn Nông nghiệp Lộc Trời chia sẻ: Cùng với cái nhìn mới của Nhà nước, nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp, rơm rạ đã và đang được nhìn nhận rất khác. Từ chỗ được xem là vật cản trở sản xuất, khó xử lý sau thu hoạch, giờ đây rơm rạ được coi là sản phẩm có giá trị khi có đầu tư công nghệ vào khâu thu gom và chế biến. Theo ông, đây là khoản thu bổ sung đáng kể cho ngành kinh tế lúa gạo nói chung và cho từng hộ nông dân nói riêng.
“Từ lâu, chúng tôi đã từng bước đầu tư vào chế biến rơm rạ như chế biến nấm rơm đến hợp tác với Đại học Bách khoa TPHCM trong việc để giải quyết các phế phẩm từ gạo xay xát với trấu nghiền để ra được nhựa sinh học có thời gian phân hủy rất nhanh. Điều này cho thấy chúng ta cần nỗ lực hơn để biến khát vọng, tiềm năng thành hiện thực đem lại giá trị thiết thực cho cuộc sống hiện nay”, ông Huỳnh Văn Thòn nói.
Vai trò của Liên minh Học tập ASEAN về kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ
Không chỉ Việt Nam, nhiều quốc gia trong khu vực cũng đang phải đối mặt với bài toán quản lý rơm rạ theo cách thân thiện hơn với môi trường và bền vững hơn về kinh tế. Từ nhu cầu chung đó, Liên minh Học tập ASEAN về kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ được hình thành và trở thành “cầu nối” hợp tác trong khu vực, nơi các bên chia sẻ kinh nghiệm, công nghệ và mô hình kinh doanh.
TS. Rica Flor, Chuyên gia khoa học cao cấp của IRRI nhấn mạnh ý nghĩa và tác động của Liên minh: "Liên minh Học tập ASEAN về kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ đang thúc đẩy sự học hỏi giữa nhiều bên liên quan và hợp tác xuyên biên giới. Hơn 100 đại biểu từ năm quốc gia (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan), bao gồm nông dân, HTX, cán bộ khuyến nông, doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách đã cùng nhau chia sẻ kiến thức, công nghệ và mô hình kinh doanh thực tiễn. Liên minh không chỉ nhân rộng các giải pháp kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm triển khai hiệu quả, mà còn xây dựng mạng lưới hợp tác bền vững trong khu vực”.
Theo bà, mỗi quốc gia có điều kiện khác nhau, song thách thức về quản lý rơm rạ là tương đồng. Thông qua Liên minh, các bên có thể học hỏi từ cả thành công lẫn thất bại, điều chỉnh mô hình cho phù hợp với bối cảnh riêng, cùng hướng đến mục tiêu chung là nông nghiệp xanh và giảm phát thải. “Đây chính là tác động lâu dài – biến chia sẻ kinh nghiệm thành cam kết hành động cụ thể, biến kết nối thành đổi mới bền vững tại từng cộng đồng nông dân", TS. Rica Flor nhấn mạnh.
Trong bức tranh đó, Campuchia được nhắc đến như một ví dụ điển hình về hành trình “biến phế thải thành tài sản”. Quốc gia này mỗi năm có khoảng 10 triệu tấn rơm rạ, trong đó 3 triệu tấn bị đốt bỏ ngoài đồng, gây thất thoát dinh dưỡng, phát thải khí nhà kính và làm suy giảm hệ sinh thái đất. TS. Rica Joy Flor cho biết, nhóm nghiên cứu đã sử dụng bản đồ GIS theo dõi tình trạng đốt rơm trong 22 năm, từ đó xây dựng mô hình sản xuất phân compost cơ giới hóa. Kết quả cho thấy năng suất lúa và rau tăng đáng kể, đa dạng sinh học đất được phục hồi ngay cả ở những vùng có lịch sử đốt rơm lâu năm.
Chiến lược nhân rộng mô hình tại Campuchia được xây dựng trên 9 trụ cột, từ nâng cao nhận thức cộng đồng, chuyển giao các gói công nghệ đa dạng (thức ăn gia súc, nấm, phân compost), đến thiết kế các chương trình hỗ trợ tài chính và xây dựng khung chính sách phù hợp. Bài học cốt lõi là phải hợp tác chặt chẽ với cộng đồng, dựa trên bằng chứng khoa học và đồng thiết kế chiến lược với các bên liên quan để bảo đảm tính bền vững.





Hoặc